ANTĐ - Hơn 20 năm nay, miến làng Đầm thuộc xã Liêm Tuyền (Thanh Liêm - Hà Nam) đã len lách khắp các thị thành trên cả nước, có mặt ở khắp các hàng quán, mâm cơm gia đình. Nhưng ít ai biết được rằng, để có được những sợi miến trắng ngần mỏng mảnh ấy, người làng Đầm đã phải đổ sao mồ hôi công sức và cả nước mắt từ làn khói nồi bánh tráng.
Về làng Đầm, được “mục sở thị”, người ta mới biết thế nào “vàng trắng” khi những chiếc xe tải của các thương gia xếp hàng dài vài trăm mét chờ những phên miến khô giòn đến độ để đưa đi bán cho các đại lý tận miền Đông Nam bộ. Anh Trần Đại Hải - một thương buôn người Đồng Tháp cho hay: “Miến làng Đầm ngon có tiếng, mua bao lăm cũng “cháy hàng”, không biết người làng này có bí quyết gì mà miến ngon đáo để”. “Chúng tôi nào có bí quyết gì đâu, chẳng qua miến ngon là ở cách thức pha bột truyền thống mà dân gian vẫn làm, có đi chăng nữa là ở đôi bàn tay khéo léo# và sự chuyên cần của người làng Đầm mà thôi” – ông Đỗ Văn Lăng, một người có thâm niên trong nghề làm miến tỏ bày. Gọi “hồn” cho miến Để có được một sản phẩm miến hoàn hảo, phải qua rất nhiều công đoạn. Trước hết là khâu chọn vật liệu, phải chọn chất bột trắng đã được sấy khô ép từ củ dong rừng hoặc bột đao lấy tận Lai Châu. Sau một thời gian khi bột dong được ủ đủ độ, người ta cho vào một cái thõng to có đường kính khoảng 2m, xả nước mưa được hứng từ một chiếc bể lớn vào thõng cho ngập bột. Khi bột và nước hòa với nhau thành một dung dịch trắng như sữa thì dùng mô tơ điện có lắp cánh quạt, thả xuống thõng khuấy đều tạo bọt nổi – còn người dân nơi đây quen gọi là khâu “gọi hồn” cho miến. Trước đây, khi chưa có các thiết bị đương đại phục vụ cho khâu “gọi hồn”, người làng Đầm phải “hò” nhau dùng những cây gậy to cứng để khuấy rất mất thời gian, còn hiện thời mọi việc có vẻ nhẹ nhàng nhàn hạ hơn. Ông Lăng cho biết, càng thay nước nhiều lần, sản phẩm miến thu được càng có màu trắng sáng, thơm dịu. Tuy nhiên nhiều nơi, nhiều người lại thích ăn những loại miến có màu mộc, ngà vàng hay ngà đỏ… thì người làng Đầm phải “bắt mạch” khẩu vị để điều chế thay nước cho hợp lý. Công đoạn phức tạp nhất đó là tráng miến, sau khi “gọi hồn”, những chất bột tinh túy nhất sẽ nổi lên mặt nước như người dân làng nghề gọi một cách hóm hỉnh là “hiện hồn”, người ta dùng gáo sạch vớt bột ra cho vào một cái nồi lớn để tráng với nhiệt độ vừa phải. Khâu này chỉ có người đàn bà mới đủ khéo léo để “vận hành”, bởi chỉ cần sơ sảy một tẹo coi như một mẻ miến “đi tong” với bao mồ hôi công sức. Bột tráng chín được trải phẳng lên một chiếc khuôn phên dài khoảng 3m, phơi đến khi nào khô quăn lại mới đạt tiêu chuẩn. Rút cuộc, cho miến vào máy cắt sao cho đều và phơi khô hẳn, sau đó mới đóng hàng chuyển cho các doanh nhân đến khắp các vùng trong nước.
Sợi miến - sợi tình Theo thống kê sơ bộ, mỗi ngày làng Đầm sinh sản không dưới 10 tấn miến. Còn vào dịp lễ tết, 10 tấn chỉ là một con số rất còng để có thể đáp ứng cho thị trường từ Nam ra Bắc. Ông Vũ Quốc Đoàn - chủ toạ UBND xã Liêm Tuyền cho biết: “Sẽ tạo tối đa điều kiện cho làng nghề có thể hoạt động hết “công suất”, vì nghề làm miến đem lại hiệu quả và thu nhập cao gấp nhiều lần so với trồng lúa…”. Tuy nhiên, người làng Đầm không vì nhân tố lợi nhuận mà làm miến một cách hời hợt. Hàng ngàn, hàng vạn sợi miến vớ đều có hồn và đặc biệt nó còn biểu hiện tình cảm thật tình của người làng nghề quanh năm “bán mặt cho bếp, bán lưng cho nắng trời” để đến nỗi người làng Đầm, mắt ai cũng “mờ mờ, ảo ảo” như một “đặc trưng” nghề. Chị Nguyễn Thị Hoa - chủ một cơ sở làm miến có tiếng phân vua: “Mặc dù công việc vất vả, nhiều khi rủi ro vì thời tiết không thuận lợi, cả tấn miến bị mốc phải đổ cho cá ăn, nhưng chúng tôi xác định mỗi sợi miến là bấy nhiêu tình cảm người làng Đầm nên yếu tố chất lượng luôn được coi trọng”. Chính thành thử, từ khi “khai nghiệp” đến nay không sao nhiêu tấn miến làng Đầm đã bị “tiêu hủy” nhưng càng thăng trầm sóng gió nhiều thì sự cẩn thận cũng như niềm tin của người dân đối với miến làng Đầm càng bền chặt. Bà Vi Thị Hảo - một khách du lịch người Quảng Ninh cho hay: “Nghe tiếng miến làng Đầm đã lâu, giờ mới có dịp ghé qua, luôn tiện mua chút về làm quà cho bạn bè”. Cứ thế, “tiếng lành đồn xa” cho đến nay thì khắp Bắc - Trung - Nam, miến làng Đầm “góp mặt” như một món ăn dân dã không thể thiếu, chí ít là trong các đám hiếu hỷ vùng nông thôn. Được biết, nhiều Việt Kiều về nước cũng cố tìm mua cho được cân miến làng Đầm để giới thiệu với bạn Tây như một món đặc sản dân tộc, hay như để cho con cháu họ nhớ món ăn của quê hương.
Đã có khi nào bạn ăn một bát miến ngan hay gà ở một nhà hàng qua hay ở một quán bình dân nào đó. Hương thơm của miến, sự đượm đà của nước cốt…quờ đều gợi cho ta nhớ về một cái gì đó xa xăm, mơ hồ lắm. Đó ít nhất cũng là chút tình quê hay thoảng tình cảm thật tâm của những người dân lam lũ khó nhọc làng Đầm, như một sự đánh đổi giữa những giọt mồ hôi để lấy những sợi miến trắng mỏng - những “sợi tình” bền chặt. Nam Trần |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét