Đọc E-paper Làng quê, cựu chẳng phải là một di sản văn hóa quý hiếm gì. Nếp sinh hoạt, cách dựng nhà, đắp đường, quy hoạch kiểu tự giác bằng tinh thần tự túc. Nhưng thật lạ, khi những lề lối ấy đã thẩm thấu vào đời sống tinh thần, bỗng dưng thành thứ hồn phách ám mị những tâm hồn vốn đã tự lấp mình bằng nỗi toan lo tính, mưu sinh. Con đường mới mở tít tắp hàng cột đèn uốn cong từng chùm sáng bạc. Ban ngày, nhìn chúng như những cây hoa hướng dương hướng về hừng đông đón nắng. Ruộng vẫn còn đó nhưng không còn xanh mải miết bởi những khu công sở mới chia màu xanh ấy thành từng phân khúc. Trên kia là quạt gió điều hòa chạy ù ù, dưới ruộng là người nông dân mướt mát mồ hôi đi thăm mảnh ruộng nhà. Nhưng, chỉ cần bỏ một chiều dạo mát chứ không lượn xe máy vù vù, chợt thấy nhói lòng khi nhìn ngõ làng vẫn uốn khúc nguyên sơ, mép cỏ vẫn in hằn cái dấu nếp của bao đời chân người làng hỗ tương. Mỗi bụi tre làng là một dấu mốc, tạo ra khúc cua, một dấu ngã trù trừ cho những ai đã trót lãng quên cội rễ. Tên những xóm Xê, xóm Gai mộc mạc như cây cối ven đường nhưng thiết tha một thời làng Việt Mường với đình, miếu, lễ hội. Mải ngước mắt nhìn lên ngọn đồi xẻ vát như một tia chớp cắt ngang, xóa đi sự yên lặng của xanh thẳm rừng đồi, nơi từng đàn lợn rừng chạy loạn những ngày rừng động. Vậy mà khi vừa ngó xuống đã bắt gặp những ngõ làng Mường xưa vắt qua sườn đồi như chiếc dây lưng xanh của sơn nữ Mường. Không đâu vào đâu như miền rừng này, mọi con đường đều đẹp như một một huyền thoại. Mỗi khúc uốn, nút thắt đường qua làng này xóm khác đẹp như một thứ trang sức cho dung mạo hoang sơ mà tràn sinh khí của làng quê miền thượng. Tình cờ mà những con đường dẫn vào làng lại nói quanh nói quẩn ngõ trúc. Không luôn đến cửa nhà ai quyền quý, không hoang tàn dẫn lối đến một mái tranh nghèo. Nhìn mà chợt nhớ xưa dưới bóng mát ấy là tun hút gió quê như lời gọi mời ma mị, là mùi bùn nồng và mát từ những ao làng, đìa sen, từ tiếng chào mào đua tiếng trong nắng trưa. Mới đó mà đã xa, lần xa này hình như bất tận. Nhìn nhà cao, phố mới mà hoa mắt như vẫn trông thấy một bóng làng mờ ảo. Lần khác lại bỗng nhìn thấy vóc dáng xưa của làng từ trên chiếc cầu cũ bắc qua con ngòi Thia nhỏ bé. Phải chăng những đường viền, những khúc đệm ấy lại là nơi nương náu của hồn mai làng xưa hay chính những gì nằm ngoài những biến động kia lại trường cửu nhất? Không rõ những vết tích làng xưa ấy sẽ còn lại bao lâu, như bụi tre già bao năm vẫn tồn tại một cách sửng sốt giữa phố Hà thành; như những cây đa Mường Khến của Mường Bi vẫn nằm giữa ngã ba của những con đường nhộn nhịp hay sẽ sớm mất đi để vĩnh viễn cắt đứt mối can dự với chất quê kệch ngày xưa, để rồi những kẻ mang tâm bệnh hoài cổ, nhớ quê khỏi vương vấn và tơ tưởng. Nhưng, trước khi những điều ấy xảy ra, trong cái nhìn của con người hôm nay vẫn khắc khoải một sự hy vọng. Dù biết sau ngõ trúc, đường tán tre rợp mát kia lại hiện lên nhà lầu, biệt thự. Vẫn biết ngòi nước kia sẽ chẳng chạm được vào những mảnh vườn giờ đã chia lô, cắt khúc, vẫn biết ắt phải tự làm mới mình để bắt nhịp cho một sức sống mới nhưng tuồng như quờ quạng những kiến giải đó đều không thể xua đi một ước muốn. Hồi tưởng như chiếc lá tre vàng rớt xuống ngòi nước kia, gửi những quên lãng ngu ngơ của tuổi thơ đi vô tận mà đến hôm nay vẫn chưa thấy trở về trên mặt nước xanh trong nhóng nhánh ánh nắng một trưa mùa Hạ. |
Thứ Năm, 25 tháng 7, 2013
Dấu vết làng xưa
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét